ClockThứ Tư, 25/05/2011 20:18

Những họa tiết khắc trên Cửu đỉnh - kỷ 6

HNN - 1. CAO ĐỈNHĐỉnh đặt ở chính giữa tượng trưng cho sự vĩ đại (tiếp theo)

CANH

 


11. Canh, tục danh lúa tẻ. Người xưa nói: lúa xay ra gạo ăn không dẻo gọi là canh, một loại lúa rất thơm, cho gạo hảo hạng, nuôi sống con người đứng đầu các loại lúa tẻ; đại diện cho hơn 47 loại lúa tẻ thời ấy, đều là hạt ngọc nhà trời. (Ở đồng làng An Cựu xưa có trồng giống lúa tẻ hương đạo, tục danh nhe vàng, dân địa phương quen gọi là de, hột hơi dài, sắc gạo rất trắng mà thơm và mềm cơm; tháng 10 cấy, tháng 3 chín, hàng năm có tiến vua. Dân gian có câu: Tôm rằn bóc vỏ bỏ đuôi / Gạo de An Cựu để nuôi mẹ già. Quả là thứ gạo ngon. Đồng ruộng ở miền Bắc có giống tám thơm; miền Nam có nàng hương, đều là những thứ lúa cho gạo hảo hạng).
Năm Minh Mạng thứ 17, đúc xong Cửu đỉnh, cho khắc hình tượng loại lúa tẻ này vào Cao đỉnh.
 
ĐA SÁCH THUYỀN
 

12. Đa Sách Thuyền, chỉ về một loại thuyền khá lớn có nhiều dây buồm (một âm là Đa Tác Thuyền) (có sách chú là thuyền nhiều đáy?), được sản xuất dưới triều vua Gia Long và Minh Mạng. Vì thuyền lớn nên cũng gọi là tàu. Loại thuyền này dùng đi theo sông lớn, đi biển dài ngày và có khả năng đi xa, vượt cả đại dương. Đời vua Minh Mạng có chiếc tàu d’Ajsas mua từ châu Âu về, trông khá giống loại thuyền này. Đa sách thuyền đạt trình độ cao về kỹ thuật đóng thuyền buồm của Việt Nam dưới thời nhà Nguyễn.
Năm Minh Mạng thứ 17, đúc xong Cửu đỉnh, cho chạm hình tượng loại thuyền đa sách này lên Cao đỉnh.
 
VĨNH TẾ HÀ
 

13. Vĩnh Tế Hà, tức là sông Vĩnh Tế, người miền Nam quen gọi là kênh (kinh) Vĩnh Tế. Nguyên trước đây, vùng này còn sình lầy, cả bộ lẫn thủy đi lại rất khó khăn, ông Nguyễn Văn Thoại, sinh quán tại Điện Bàn, Quảng Nam - sau vào định cư ở Vĩnh Long, có công phò tá chúa Nguyễn Ánh, được triều đình Huế trọng dụng, phong tước Hầu rất sớm, dân trong vùng quen gọi là Thoại Ngọc Hầu; năm 1818, ông được vua Gia Long bổ làm Trấn thủ Vĩnh Thanh (gồm cả Long Xuyên và Cần Thơ). Tại đây ông cùng quan quân địa phương thiết kế và đốc suất dân binh đào kênh Đông Xuyên rất ích lợi; kênh ấy được nhà vua cho gọi theo tên ông là Thoại Hà; nhân thấy bờ phía đông gần đấy có ngọn Khâu Sơn, bèn cho tên là Thoại Sơn để biểu dương công lao của ông, lại cho dựng miếu thờ sơn thần ở chân núi. Đầu năm 1820, ông lại được lệnh đào con kênh nối từ vùng Châu Đốc đến xứ Hà Tiên. Trong thời gian đào kênh, bà Châu Thị Vĩnh Tế, quê ở Vĩnh Long, vợ của Thoại Ngọc Hầu đã hết lòng lo liệu cùng chồng đốc suất dân binh để đào bằng xong con kênh này. Cảm phục trước công sức khó nhọc của bà, sau khi công trình hoàn thành, vua Minh Mạng đã lấy tên của bà để đặt cho con kênh này là Vĩnh Tế.
Kênh Vĩnh Tế là một công trình thủy lợi, do chính Thoại Ngọc Hầu thiết kế và tự thân đốc suất dân binh làm việc ngày đêm, với số nhân công lên đến 80.000 người. Thời gian đào kéo dài gần 5 năm (1820-1824). Sự thành công này đem lại lợi ích nhiều mặt cho vùng biên giới Tây Nam của Tổ quốc. Đương thời khi kênh đào xong, vua Minh Mạng lấy làm hoan hỉ, khen ngợi công sức của dân binh trong vùng và ông bà Thoại Ngọc Hầu, lại sai dựng bia ở bên bờ sông để ghi sự tích. Kênh Vĩnh Tế lúc mới đào rộng 15 tầm, sâu 6 thước, dài hơn 200 dặm. Kênh này hiện có nhiều đoạn được nới rộng, sâu và dài hơn xưa, chảy từ Châu Đốc, Tri Tôn, tỉnh An Giang xuống huyện Kiên Lương gặp sông Giang Thành chảy tới cửa Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang; đoạn kênh chảy qua Hà Tiên còn được gọi là rạch Hà Tiên. Kênh chảy song song với đường biên giới Việt Nam - Campuchia cách đường biên giới 3 cây số. Có lẽ trong lịch sử mở nước, đây là trường hợp duy nhất ở nước ta, cả hai vợ chồng đều có công khai sông dẫn thủy đã được triều đình lấy tên để đặt tên cho công trình mà họ đã làm nên; đặc biệt là công sức đóng góp của người phụ nữ đối với đất nước. Vua Minh Mạng cho khắc hình tượng Vĩnh Tế Hà lên Cao đỉnh, thờ trước sân chầu Thế Tổ Miếu. Dưới chân núi Thoại Sơn, từ buổi ấy nhân dân đã lập đền thờ hai ông bà Thoại Ngọc Hầu, bốn mùa hương khói tri ân.
(còn nữa)
Dương Phước Thu
ĐÁNH GIÁ
Hãy trở thành người đầu tiên đánh giá cho bài viết này!
  Nội dung góp ý

BẠN CÓ THỂ QUAN TÂM

Từ trong đổ nát năm xưa…

Ngang qua cung An Định lúc chiều đã muộn, vẫn thấy “dập dìu tài tử giai nhân” trong các bộ cổ phục nán lại chưa muốn về cho dù trong máy của họ bộ sưu tập ảnh chắc cũng đã gần chật bộ nhớ. Tôi mỉm cười, và dù không khiến nhưng trí óc vẫn miên man đưa tôi về một ngày đã rất xa, lúc cung An Định đang là một đống hoang tàn, đổ nát…

Từ trong đổ nát năm xưa…
Bảo vệ di tích trước thiên tai

Thực tế cho thấy, địa bàn thành phố Huế có thời tiết khắc nghiệt nên nhiều di tích đang đối mặt với tình trạng xuống cấp, trở nên “mong manh” trước mưa, bão.

Bảo vệ di tích trước thiên tai
Niềm cảm khái khi thăm Văn miếu Mao Điền

Một dân tộc mà dù trong hoàn cảnh nào cũng luôn trọng chữ nghĩa, luôn tôn kính đạo học, dân tộc ấy xứng đáng và chắc chắn sẽ có một tương lai rạng ngời.

Niềm cảm khái khi thăm Văn miếu Mao Điền
Luật Di sản văn hóa sẽ tháo gỡ nhiều điểm nghẽn

Luật Di sản văn hóa số 45/2025/QH15 được Quốc hội Khóa XV thông qua ngày 23/11/2024 tại Kỳ họp thứ 8 và chính thức có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2025. Với Huế, thành phố trực thuộc Trung ương và là thành phố di sản, văn hóa đầu tiên của Việt Nam, Luật Di sản văn hóa (sửa đổi) góp phần quan trọng trong nâng cao hiệu quả quản lý, bảo vệ và phát huy di sản văn hóa.

Luật Di sản văn hóa sẽ tháo gỡ nhiều điểm nghẽn
Trao đổi kinh nghiệm bảo tồn, phát huy giá trị di sản thế giới

Chiều 19/3, tại Nhà hát Duyệt Thị Đường, Đại Nội Huế, Đoàn công tác của UBND thành phố Hà Nội do Thành ủy viên, Phó Chủ tịch UBND Thành phố Vũ Thu Hà làm trưởng đoàn, đã có buổi làm việc với UBND Thành phố Huế về trao đổi kinh nghiệm trong công tác bảo tồn, phát huy giá trị di sản thế giới và phục dựng các công trình kiến trúc cung điện. Tiếp và làm việc với đoàn có UVTV Thành ủy, Phó Chủ tịch Thường trực UBND Thành phố Huế Nguyễn Thanh Bình, cùng đại diện các sở, ngành liên quan.

Trao đổi kinh nghiệm bảo tồn, phát huy giá trị di sản thế giới

TIN MỚI

Return to top