ClockChủ Nhật, 31/10/2021 07:07

Phải chỉ ra cho được quy trình sản xuất hiệu quả hơn

HNN - Viện Công nghệ Sinh học, Đại học Huế vừa công bố triển khai đề tài khoa học “Hoàn thiện quy trình công nghệ nhân giống cây rau má tại xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền”. Đề tài được thực hiện trong 3 năm, từ 2021 – 2024 – một tin báo chí cho biết điều này, nhưng không cho biết số tiền cho việc nghiên cứu là bao nhiêu.

Nghiên cứu hoàn thiện quy trình công nghệ nhân giống cây rau má

Rau má được trồng nhiều ở Quảng Điền

Cây rau má trồng ở Quảng Thọ đã nổi tiếng từ nhiều năm nay. Hiện nay ở Quảng Thọ có khoảng 42ha rau má. Quy trình trồng rau má Quảng Thọ đã đạt tiêu chuẩn VietGAP. Sản phẩm trà rau má Quảng Thọ đã được Cục Sở hữu trí tuệ cấp giấy chứng nhận nhãn hiệu tập thể về quyền sở hữu.

Cũng thông tin báo chí nói trên cho biết, nghiên cứu gồm nhiều nội dung, trong đó có nghiên cứu các tiêu chí phân biệt giống rau má Quảng Thọ với các giống rau má khác; nghiên cứu hoàn thiện quy trình công nghệ sản xuất giống, trồng, chăm sóc, thu hoạch cây rau má Quảng Thọ bằng công nghệ nuôi cấy mô tế bào thực vật; nghiên cứu quy trình trồng và chăm sóc cây rau má hướng đến tiêu chuẩn rau hữu cơ. Đồng thời sẽ có các hội thảo, tập huấn và chuyển giao.

Rau má là một cây hoang dại, dễ nảy mầm và phát triển. Khi phát triển nó thành những ruộng rau, kiểu như ở Quảng Thọ thì điều kiện sinh tồn và phát triển của cây rau má đã khác. Có thể hiểu là từ một cây hoang dại, nảy mầm và sống rải rác, giờ nó buộc phải phát triển như một giống cây sản xuất theo lối “công nghiệp”. Vì môi trường đã khác nên cách chăm sóc cũng phải khác.

Nghiên cứu để hiểu thêm về nó và phát triển nó thành một sản phẩm nông nghiệp có lợi thế là điều cần thiết.

Người viết bài này có mấy ý kiến về mục tiêu nghiên cứu đề tài nêu trên. Thứ nhất, cây rau má đã tồn tại và phát triển ở Quảng Thọ từ lâu. Quy trình sản xuất cũng đã được đúc kết (ở một mức độ nào đó). Tức là đề tài nghiên cứu trên cái nền tảng đã có chứ không phải “sáng tạo mới” hoàn toàn. Cho nên về mặt kinh phí cần phải xem xét kỹ cho phù hợp để tiết kiệm chi phí của Nhà nước.

Thứ hai, không cần phân biệt cây rau má Quảng Thọ với những cây rau má ở nơi khác làm gì. Bởi chúng ta đều biết, cũng là một giống cây trồng ấy nhưng trồng ở những nơi khác nhau sẽ cho ra chất lượng khác nhau. Bởi cây trồng nó phụ thuộc quá nhiều yếu tố: chất đất, điều kiện thời tiết, khí hậu, môi trường, nguồn nước, cách thức chăm sóc… Nếu như trong quá trình nghiên cứu phát hiện và chỉ ra: cây rau má Quảng Thọ khác với cây rau má ở các nơi khác (hơn hoặc thua về chất lượng, ở đây giả sử như thua về chất lượng) đối với cây rau má ở những nơi khác thì cần thiết phải thực hiện một động tác tiếp theo - đưa cây rau má ở những nơi khác về trồng ở Quảng Thọ. Trồng xong rồi phải nghiên cứu đánh giá lại. Làm như vậy mới có ý nghĩa về mặt khoa học. Đến đây thì chúng ta thấy “độ phức tạp” của đề tài nghiên cứu. Cho nên theo người viết, chỉ cần khoanh vùng nghiên cứu về cây rau má được trồng ở Quảng Thọ thôi. Trong điều kiện chẳng mấy đề tài nghiên cứu khoa học của chúng ta thương mại hóa được thì cũng nên “liệu cơm gắp mắm” để tiết kiệm cho ngân sách Nhà nước. Cho đến khi nào các đơn vị nghiên cứu khoa học tự tin bỏ tiền lưng ra nghiên cứu thì đó là một việc khác.

Thứ ba, kết quả nghiên cứu khoa học phải chỉ ra cho được quy trình nhân giống (theo đề tài là nuôi cấy mô) có lợi hơn so với việc nhân giống bình thường hay không? Nhà nghiên cứu phải tiên lượng được là nó hơn, nếu không việc nghiên cứu cũng chẳng giúp ích gì!? Quy trình sản xuất cũng vậy, phải chỉ ra cho được một quy trình sản xuất chất lượng tốt hơn, hiệu quả kinh tế cao hơn. Ví dụ như quy trình sản xuất. Rau má Quảng Thọ đã đạt quy trình sản xuất VietGAP, nên phải là một chuẩn cao hơn, chẳng hạn như Globalgap để còn hướng đến xuất khẩu nó mới có ý nghĩa.

Thứ tư là việc chuyển giao khoa học công nghệ. Bản tin nói trên cho biết, kết quả của đề tài sẽ được chuyển giao cho nhiều nơi khác, trong đó có các tỉnh ở miền Trung. Đến đây thì nó liên quan đến chuyện quyền sở hữu đề tài. Chuyển giao đề tài có một phần là hoạt động kinh tế. Nếu hoạt động kinh tế này sinh lợi thì nhất thiết Nhà nước phải có một phần lợi trong đó, bởi vì Nhà nước là người tài trợ kinh phí. Kinh phí này nếu thu được sẽ tài trợ cho các đề tài nghiên cứu khoa học về sau.

Bài: LÊ NGUYÊN - Ảnh: HẢI TRIỀU

ĐÁNH GIÁ
Hãy trở thành người đầu tiên đánh giá cho bài viết này!
  Nội dung góp ý

BẠN CÓ THỂ QUAN TÂM

Phát huy hiệu quả nhiều mô hình kinh tế

Sử dụng nguồn vốn từ các chương trình tín dụng của Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH), phụ nữ xã Phú Vang đã cần cù, nỗ lực, áp dụng kỹ thuật khoa học, thực hiện nhiều mô hình sản xuất, kinh doanh (SXKD) hiệu quả, dần vươn lên cuộc sống khấm khá...

Phát huy hiệu quả nhiều mô hình kinh tế
Xe buýt điện từ Huế đưa vào vận hành tại Côn Đảo

Sáng 25/12, tại TP. Hồ Chí Minh, Công ty cổ phần Kim Long Motor Huế và Tập đoàn Côn Đảo ký kết hợp tác chiến lược toàn diện, cung cấp các dòng xe điện, trong đó có xe buýt điện đô thị, phục vụ hoạt động vận tải công cộng tại đặc khu Côn Đảo.

Xe buýt điện từ Huế đưa vào vận hành tại Côn Đảo
Phong Dinh chú trọng phát triển bền vững từ cơ sở

Nằm bên bờ nam sông Ô Lâu, phường Phong Dinh là địa bàn thấp trũng, đời sống còn gặp nhiều khó khăn, chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp nhỏ lẻ. Được sự quan tâm của các cấp ngành Trung ương, địa phương, Phong Dinh đã triển khai hiệu quả các chương trình mục tiêu quốc gia, chú trọng công tác giảm nghèo, tạo nền tảng phát triển bền vững từ cơ sở.

Phong Dinh chú trọng phát triển bền vững từ cơ sở
Kinh tế nông nghiệp tuần hoàn tạo sinh kế bền vững

Sau 5 năm nghiên cứu xây dựng, phát triển kinh tế nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp tuần hoàn (NNHC, NNTH), chuỗi giá trị Quế Lâm cho thấy, đây là mô hình kinh tế hiệu quả, tạo ra nhiều sinh kế bền vững cho người dân, góp phần bảo vệ môi trường và sức khỏe cộng đồng.

Kinh tế nông nghiệp tuần hoàn tạo sinh kế bền vững
Lồng ghép các chính sách để giảm nghèo hiệu quả

Nhiều địa phương như Kim Trà, Bình Điền đã tận dụng điều kiện thuận lợi, lồng ghép các chính sách để tập trung phát triển các lĩnh vực lâm nghiệp, chăn nuôi, trồng trọt và sản phẩm các làng nghề truyền thống nhằm tạo động lực trong công tác giảm nghèo ở địa phương.

Lồng ghép các chính sách để giảm nghèo hiệu quả

TIN MỚI

Return to top