
Thứ Năm, 23/09/2010 14:30
(GMT+7)
Huế cũng là đất võ
HNN - Nhớ cách nay không lâu, tôi đọc được trên mạng internet một ý kiến đặt vấn đề khá hay, rằng nói đến Huế người ta thường chú ý tới các đề tài có chất “văn”, như nhã nhạc, kiến trúc, ẩm thực, phục trang…nhưng là một kinh đô hơn trăm năm, Huế không thể tồn tại nhờ vào văn sách mà còn phải có võ công. Huế cũng là đất võ.
Tôi lần tìm trong lịch sử. Thì đó, bên cạnh Văn Miếu, Huế còn có Võ Miếu. Dân gian có lời truyền tụng “Văn thánh trồng thông, Võ thánh trồng bàng. Ngó vô Xã tắc hai hàng mù u”. Sử cũ chép lại, sau khi Văn Miếu Huế được xây dựng, theo kiến nghị của Bộ Lễ, vua Minh Mạng có dụ rằng: "Điều cốt yếu trong việc trị nước phải gồm có cả văn lẫn võ, không thể thiên về một bên. Việc xây dựng Võ Miếu là việc nên làm...”. Vua Minh Mạng đã chuẩn y cho xây dựng Võ Miếu, được khởi công vào tháng 9 năm Ất Mùi (1835), tại làng An Ninh thuộc huyện Hương Trà, phía bên trái Văn Miếu và trước mặt sông Hương nhằm thể hiện sự chú trọng đến giáo dục quân sự và đề cao nghiệp võ. Đọc lịch sử, tôi được biết, Huế cũng từng là nơi diễn ra các kỳ thi võ khoa đỉnh cao, tập trung nhân tài võ học. Lần đầu tiên Huế có trường huấn luyện “võ kinh”, “võ lâm” là vào năm 1802, khi vua Gia Long định đô tại đây.

Bia đá tại Võ Miếu Huế, chứng tích còn lại của một di tích trong Quần thể di tích Cố đô Huế.
Cùng với một nền võ cổ truyền của triều đại Tây Sơn, dưới thời nhà Nguyễn, Huế được mệnh danh là Võ kinh với nhiều môn phái võ cổ truyền quy tụ nhiều nhân tài võ nghệ từ khắp mọi miền đất nước hội tụ về vùng đất này mong muốn phục vụ cho triều đình… Truyền thống về một vùng đấtvõ là điều đáng ghi nhận về Cố đô. Năm Minh Mạng thứ 20 (1839), triều đình Huế cho dựng 3 tấm bia Võ Công ở trước sân Võ Miếu khắc ghi công trạng của 10 võ tướng đã có nhiều chiến công đóng góp trong hai triều Gia Long và Minh Mạng thì có đến 5 người quê ở Thừa Thiên là các vị: Phạm Hữu Tâm, Phạm Văn Điển, Mai Công Ngôn, Tôn Thất Bật, Tạ Quang Cự. Năm 1854, do bị quy tội “dự mưu” trong vụ chính biến của Hồng Bảo (anh vua Tự Đức), Tôn Thất Bật đã bị đục tên. Dưới thời Tự Đức, triều đình tiếp tục cho dựng thêm 2 tấm “Tiến sĩ võ”, ghi danh cũng 10 Tiến sĩ đỗ trong 3 khoa thi võ vào các năm Ất Sửu (1865), Mậu Thìn (1868) và Kỷ Tỵ (1869) cũng thấy có đến 3 nguời đến từ Thừa Thiên là Văn Vận, Dương Việt Thiệu và Trần Văn Hiếu.
Tinh thần thượng võ như ngấm vào bên trong, là biểu trưng của con người miền núi Ngự sông Hương hôm nay là điều mà tôi cảm nhận được khi đi về nhiều vùng đất ở đây. Nhớ Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường trong một lần ghé thăm Vạn An phái đã rất ngạc nhiên và ngưỡng mộ trước những đòn cước của môn phái cổ truyền được hình thành khá lâu ở Huế này. Trong một bút ký nổi tiếng, ông đã có nhận xét lay động lòng người : “Ôi, thật thâm hậu cái nội lực của một làng quê ở đất kinh xưa… quả xứng đáng là những tinh hoa cổ truyền của một nền văn hóa thượng võ”. Tôi đọc, tự hào và như có thêm một cảm nhận về Huế, vùng đất thượng võ.
Đan Duy