 |
| Các CCB Đại đội 4 gặp gỡ học viên Trường Trung cấp Kỹ thuật tăng thiết giáp trên bãi tập |
Hòa bình lập lại, người đi kẻ ở, người đi học, người chuyển ngành... nhưng không một ai quên cái nơi mình đã để lại một phần tuổi trẻ. Và khát khao trở về nơi ấy luôn cháy bỏng trong tim họ.
Nhiệm vụ đặc biệt
Cuối tháng 3/1972, khi đang xúc tiến việc chuẩn bị tham gia cuộc Tổng tiến công chiến lược năm 1972, Đại đội xe tăng 4 thuộc Tiểu đoàn 512, Trung đoàn 203 cùng một đại đội xe tăng bơi nước nhận lệnh độc lập cơ động vào A Lưới. Nhiệm vụ của họ là khi ta đánh mạnh từ phía bắc, họ sẽ cùng với các đơn vị bạn hình thành mũi vu hồi từ phía tây vào sườn TP. Huế, sẵn sàng giải phóng Trị - Thiên khi có thời cơ. Quả thực, đây là một ý tưởng rất sáng tạo và nếu mọi sự diễn ra theo dự tính thì sẽ giải phóng Trị - Thiên ngay trong năm 1972.
Sau hơn một tháng hành quân, vượt qua bao khó khăn, gian khổ của những cung đường quân sự làm gấp với hai lần vượt Trường Sơn cùng với sự ngăn chặn quyết liệt của không quân Mỹ, họ đã đặt chân đến A Lưới - vị trí mà trên quy định vào đầu tháng 5/1972.
A Lưới - nơi Mỹ và Việt Nam cộng hòa thường gọi là A Sho hoặc A Sầu - là một thung lũng trên sườn đông dãy Trường Sơn, án ngữ con đường huyết mạch đông Trường Sơn từ Bắc vào Nam nên được coi là một địa bàn chiến lược và là nơi hai bên giành giật nhiều lần. Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ 1954, A Lưới thuộc quyền kiểm soát của Việt Nam cộng hòa. Ngô Đình Diệm cho mở con đường 12 (ta gọi là đường 72, giờ là Quốc lộ 49) nối Huế tới A Lưới và hô hào “Bắc tiến” từ đây. Năm 1966, Quân giải phóng miền Nam đã giành lại quyền làm chủ khu vực này. Năm 1969, Mỹ đã tung Sư đoàn Kỵ binh bay số 1 ra hòng chiếm lại A Lưới. Giao tranh diễn ra ác liệt và sau khoảng 20 ngày đóng giữ, các đơn vị của Mỹ đã phải rút đi để lại những địa danh đẫm máu như đồi A Bia mà phía Mỹ gọi là đồi Hăm- bơ-gơ (đồi Thịt Băm)... Từ đó, A Lưới trở thành trọng điểm đánh phá của không quân cũng như các loại chất độc hóa học. Cả thung lũng - đặc biệt là khu vực sân bay A Lưới (thị trấn A Lưới bây giờ) chi chít hố bom. Rừng già đại ngàn cũng bị triệt hạ, những cây đại thụ cỡ vài người ôm bị rụng hết lá chết đi chỉ để lại những cành khô khẳng khiu vươn lên bầu trời như những cánh tay đang cầu cứu. Các bản làng của bà con Pa Cô, Tà Ôi... bản địa cũng phải di dời lên đỉnh núi cao để tránh giặc, song bà con vẫn luôn trung thành với cách mạng. Để thể hiện lòng trung thành đó, toàn thể dân tộc Pa Cô đã tự nguyện lấy họ của Bác Hồ làm họ của mình. Trong đánh giặc họ cũng rất dũng cảm, sáng tạo và đã có nhiều người con của mảnh đất này được tuyên dương như Anh hùng LLVTND Hồ Đức Vai, Hồ Kan Lịch...
Trong khi cả đại đội đang khẩn trương củng cố xe pháo để vào đường 72 làm nhiệm vụ, ngày 7/5/1972, một trận bom B52 rải thảm bất ngờ đánh trúng đội hình trú quân. Cả một khu vực rộng lớn rung lên như động đất. Những chiếc xe tăng nặng hơn 30 tấn cũng chao đảo như đưa võng, khói lửa mù trời, cây đổ ngổn ngang... Xe tăng số 388 bị một quả bom tấn hất tung lộn ngửa bụng lên trời. Bốn chiến sĩ trong kíp xe đã hy sinh tại chỗ. Đó là các liệt sĩ: Nguyễn Minh Luyến, Lê Mạnh Hùng, Vũ Ngọc Kiểm, Lê Khả Mai. Nén đau thương, ngay sau đó đơn vị đã tổ chức mai táng cho 4 liệt sĩ và cơ động vào đường 12 làm nhiệm vụ.
Song rất tiếc, thời điểm đó sức ta chưa đủ mạnh để dồn ép địch. Khi ta vừa giải phóng tỉnh Quảng Trị và áp sát Thừa Thiên, chính quyền Sài Gòn đã lập tức tung các đơn vị trù bị hùng mạnh nhất ra địa bàn Quân khu 1 để phản công. Không chỉ có vậy, lợi dụng mùa mưa việc tiếp tế, cơ động gặp nhiều khó khăn, quân địch lấn chiếm vùng giải phóng tới tận Tà Lương, chỉ cách vị trí Đại đội xe tăng 4 trú quân vài ki-lô-mét. Lúc này, Đại đội xe tăng 4 phải trụ lại hai bên ngầm sông (khu vực xã Hồng Hạ ngày nay) trong tình trạng sẵn sàng chiến đấu cao độ để giữ vững vùng giải phóng và cũng là bảo vệ mình. Gần 1 năm trụ lại nơi đây, 5 chiến sĩ của đại đội đã hy sinh là Triệu Hồng Lạc, Nguyễn Văn Lược, Đỗ Chí Tình, Phạm Văn Chính và Tạ Văn Hạnh cùng một số đồng chí bị thương. Khi Hiệp định Paris được ký kết, Đại đội xe tăng 4 cùng bộ binh Căn cứ 2 đã đánh hai trận, chiếm lại Tà Lương, mở rộng vùng giải phóng trước giờ hiệp định có hiệu lực.
Hai năm rèn đức, rèn sức, luyện tài
Tháng 4/1973, Đại đội xe tăng 4 trở lại khu vực phía bắc Sân bay A Lưới (nay là xã Hồng Bắc) trú quân, củng cố xe cộ và huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu. Yên hàn đã trở lại. Một thời gian sau, bà con Pa Cô cũng trở về bản cũ. Thì ra đây chính là khu vực bản Ale Nốc - quê hương của Anh hùng Hồ Đức Vai, Hồ Kan Lịch ngày xưa. Thế là họ thành “hàng xóm” của nhau, nương tựa vào nhau, giúp đỡ lẫn nhau... Bà con mới về, thiếu thốn đủ thứ, bộ đội liền san sẻ gạo muối, dầu đèn, mở lò rèn rèn nông cụ giúp bà con. Bà con chăn nuôi, tăng gia được thì giúp bộ đội khi con gà, lúc mớ rau, quả bí... Chính bà con đã trở thành tai mắt cho bộ đội trong công tác phòng gian, giữ bí mật. Trong thời gian này, đơn vị đã cho xe ra kéo chiếc 388 trở lại tư thế bình thường, song do khả năng chuyên môn và dụng cụ còn hạn chế nên không thể khôi phục được. Tuy nhiên, điều đau đớn hơn cả là mộ 4 liệt sĩ đã không còn. Vì là một trọng điểm đánh phá nên không biết bao nhiêu bom đạn không quân Mỹ đã ném xuống đây, hết đợt này đến đợt khác đã làm biến dạng cả địa hình và không thể tìm được nơi mai táng các anh.
Hai năm nằm lại hậu cứ Hồng Bắc là thời gian để cán bộ, chiến sĩ Đại đội xe tăng 4 “rèn đức, rèn sức, luyện tài”. Với đôi tay cần cù, khéo léo và đầu óc thông minh, sáng tạo họ đã tạo dựng nên một cơ ngơi khá đồng bộ, chính quy dù ở giữa chiến trường. Người có nhà ở, xe có lán có hầm, xung quanh đơn vị là rẫy sắn, rẫy rau để cải thiện đời sống. Họ cũng xây dựng nên một hệ thống thao trường, bãi tập chuyên ngành để luyện tập nâng cao trình độ về mọi mặt. Tuy vậy, trong lòng ai cũng đau đáu mong sớm đến một ngày về giải phóng Huế. Nặng lòng với Huế như vậy nên nhiều anh em chỉ mong được làm rể Huế, còn Đại đội trưởng Bùi Quang Thận về phép cưới vợ, khi trả phép đã dặn vợ rằng: “Nếu có con trai thì đặt tên là Thành, còn con gái thì đặt tên là Huế”. Giờ đây, người con gái tên Huế cũng đã gần 50 tuổi và đang công tác tại Cục Quân y (Bộ Quốc phòng).
Hai năm rèn luyện như được tiếp thêm năng lượng. Tháng 3/1975, Đại đội xe tăng 4 lên đường tham gia cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975. Sau khi tham gia giải phóng Huế ngày 25/3, Đà Nẵng ngày 29/3, đại đội đã thực hiện cuộc hành quân thần tốc hơn 1.000km dọc Quốc lộ 1 vào tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh. Ngày 30/4/1975, đại đội đã dẫn đầu đội hình thọc sâu của Quân đoàn 2 tiến công Sài Gòn. Hai chiếc xe tăng 843 và 390 của đại đội đã húc đổ cánh cổng Dinh Độc Lập, Đại đội trưởng Bùi Quang Thận đã cắm lá cờ giải phóng lên nóc dinh báo hiệu giờ toàn thắng lúc 11h30 ngày 30/4/1975.
Các CCB của Đại đội xe tăng 4 năm xưa đã thuộc lớp người “xưa nay hiếm”. Sức khỏe không cho phép họ thường xuyên trở lại thăm A Lưới - miền đất thấm đẫm ân tình nữa, nhưng trong trái tim họ vẫn luôn hướng về vùng đất anh hùng đã cưu mang, nuôi dưỡng họ và cũng thấm máu của họ cùng đồng đội trong những năm chiến tranh khốc liệt nhất.