 |
| Kiểm tra tình trạng sức khỏe cho bệnh nhân. Ảnh: NGUYỄN THƯỢNG HIỂN |
Anh Nguyễn Ph. (47 tuổi, xã Gio Linh - tỉnh Quảng Trị) nhập viện vì tràn dịch màng phổi và màng bụng, kèm theo một khối u lớn ở gan. Sau khi sinh thiết, bác sĩ chẩn đoán anh mắc ung thư gan nguyên phát. Điều đáng tiếc là bệnh nhân có bối cảnh viêm gan rất nặng, suy chức năng gan. Theo lời khai, bệnh nhân từng được chẩn đoán viêm gan siêu vi B cách đây hơn 4 năm nhưng chỉ ở nhà uống các loại nước lá theo lời mách bảo của người thân, không điều trị và cũng không theo dõi y tế định kỳ.
Tương tự, ông Ngô Tiến L. (68 tuổi, xã Phú Hồ - thành phố Huế) cũng nhập viện với chẩn đoán tổn thương gan đa ổ, ung thư gan. Bệnh nhân hoàn toàn không biết mình bị viêm gan siêu vi B vì chưa từng đi khám.
Trong khi đó, bệnh nhân Sử Duy M. (56 tuổi, phường Phú Xuân - thành phố Huế) nhập viện vì đau bụng, đi cầu phân đen, nôn ra máu và khó thở. Sau khi khám và làm các xét nghiệm, bệnh nhân được chẩn đoán ung thư gan nguyên phát trên nền xơ gan và viêm gan siêu vi C, suy chức năng gan.
Nguyên nhân hàng đầu: nhiễm virus viêm gan B, C
Yếu tố nguy cơ gây ung thư gan ngoài liên quan đến lối sống và môi trường (lạm dụng rượu bia, ăn các thực phẩm mốc (ngô, đậu...) thì bệnh nhiễm virus gây viêm gan siêu vi B và C (HBV, HCV) là nguyên nhân hàng đầu. Thống kê cho thấy, có đến 70% các trường hợp ung thư gan là do nhiễm virus viêm gan B và 25% do nhiễm virus viêm gan C. Khi viêm gan tiến triển gây tổn thương gan mạn tính, dẫn đến tình trạng xơ gan, làm tăng nguy cơ phát triển thành ung thư.
Nhiều nghiên cứu chứng minh người nhiễm virus viêm gan B và C có nguy cơ mắc ung thư gấp 15-20 lần so với người không nhiễm. Việc phát hiện sớm và điều trị hiệu quả các bệnh viêm gan B và C là rất quan trọng để ngăn chặn sự phát triển của ung thư gan. Tuy nhiên, theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), chỉ tính riêng với viêm gan C mạn tính có khoảng 58 triệu người trên toàn cầu đang sống chung với bệnh này và mỗi năm có thêm khoảng 1,5 triệu ca nhiễm mới; trong khi đó chỉ 21% người nhiễm HCV được chẩn đoán và chỉ 13% được tiếp cận điều trị đầy đủ (WHO, 2023). Điều này cho thấy một khoảng cách rất lớn giữa tiến bộ y học và thực tế triển khai, đòi hỏi sự vào cuộc mạnh mẽ hơn từ các hệ thống y tế toàn cầu.
Ung thư gan giai đoạn sớm thường diễn tiến âm thầm, không có triệu chứng. Đến khi các triệu chứng xuất hiện buộc bệnh nhân đi khám bao gồm: đau bất thường vùng hạ vị, vàng da, vàng mắt, chán ăn, sụt cân không rõ nguyên nhân… thì phần lớn bệnh đã ở vào giai đoạn muộn và rất muộn, khiến việc điều trị hết sức khó khăn và hiệu quả không cao. Ngoài ra, một xu hướng đáng lo ngại là bệnh nhân ung thư nói chung và ung thư gan nói riêng ngày càng trẻ hóa.
Phòng ngừa ung thư gan do viêm gan virus
Virus viêm gan B và C có thể lây truyền qua đường máu, dịch huyết tương hoặc các dịch khác của cơ thể, cũng như lây truyền qua quan hệ tình dục không an toàn và từ mẹ sang con. Vì thế, cần cảnh giác với các đường lây truyền virus.
Tiêm vắc-xin phòng ngừa virus viêm gan B là biện pháp cơ bản nhất để ngăn ngừa nhiễm virus viêm gan B. Trẻ sơ sinh nên tiêm vắc-xin viêm gan B càng sớm càng tốt ngay sau khi sinh. Tiêm đủ 3 liều vắc-xin tạo ra mức kháng thể bảo vệ ở hơn 95% trẻ sơ sinh, trẻ em và thanh niên. Kháng thể có thể kéo dài đến 20 năm, tuy nhiên lượng kháng thể sẽ giảm dần theo thời gian. Ở người trưởng thành khi xét nghiệm máu nếu nhận thấy kháng thể viêm gan B yếu thì cần tiêm nhắc lại để đảm bảo hiệu quả phòng bệnh. Đối với virus viêm gan C thì hiện nay chưa có vắc-xin phòng bệnh hiệu quả.
Những trường hợp đã mắc viêm gan virus B, nên điều trị thuốc kháng virus theo chỉ định của bác sĩ và khám sức khỏe định kỳ. Khi mắc bệnh viêm gan C cần được điều trị cho đến khi đạt đáp ứng virus bền vững (SVR) để giảm nguy cơ mắc ung thư gan. Tuy nhiên, ngay cả khi đạt SVR, người bệnh lớn tuổi với tiểu cầu thấp và/hoặc có xơ gan vẫn có nguy cơ cao mắc ung thư gan và cần được tầm soát định kỳ. Tùy từng trường hợp, mức độ xơ gan có thể khám sàng lọc mỗi 3- 6 tháng.
Những bệnh nhân viêm gan virus nếu có kèm những yếu tố khác như lạm dụng rượu, béo phì, gan nhiễm mỡ không do rượu, tiểu đường, yếu tố gia đình… thì càng làm tăng nguy cơ ung thư gan.
Một điều đáng lưu ý nữa, trong mọi trường hợp cần tuân thủ hướng dẫn chuyên môn của bác sĩ, tuyệt đối không tự ý điều trị, không dùng các loại thuốc cả tây y và đông y không rõ nguồn gốc. Thực tế, đã có không ít bệnh nhân vào viện với tình trạng nhiễm độc gan, suy chức năng gan nặng, làm cho việc điều trị càng khó khăn và kém hiệu quả.