Tôi lần tìm trong lịch sử. Thì đó, bên cạnh Văn Miếu, Huế còn có Võ Miếu. Dân gian có lời truyền tụng “Văn thánh trồng thông, Võ thánh trồng bàng. Ngó vô Xã tắc hai hàng mù u”. Sử cũ chép lại, sau khi Văn Miếu Huế được xây dựng, theo kiến nghị của Bộ Lễ, vua Minh Mạng có dụ rằng: "Điều cốt yếu trong việc trị nước phải gồm có cả văn lẫn võ, không thể thiên về một bên. Việc xây dựng Võ Miếu là việc nên làm...”. Vua Minh Mạng đã chuẩn y cho xây dựng Võ Miếu, được khởi công vào tháng 9 năm Ất Mùi (1835), tại làng An Ninh thuộc huyện Hương Trà, phía bên trái Văn Miếu và trước mặt sông Hương nhằm thể hiện sự chú trọng đến giáo dục quân sự và đề cao nghiệp võ. Đọc lịch sử, tôi được biết, Huế cũng từng là nơi diễn ra các kỳ thi võ khoa đỉnh cao, tập trung nhân tài võ học. Lần đầu tiên Huế có trường huấn luyện “võ kinh”, “võ lâm” là vào năm 1802, khi vua Gia Long định đô tại đây.

Bia đá tại Võ Miếu Huế, chứng tích còn lại của một di tích trong Quần thể di tích Cố đô Huế.
Cùng với một nền võ cổ truyền của triều đại Tây Sơn, dưới thời nhà Nguyễn, Huế được mệnh danh là Võ kinh với nhiều môn phái võ cổ truyền quy tụ nhiều nhân tài võ nghệ từ khắp mọi miền đất nước hội tụ về vùng đất này mong muốn phục vụ cho triều đình… Truyền thống về một vùng đấtvõ là điều đáng ghi nhận về Cố đô. Năm Minh Mạng thứ 20 (1839), triều đình Huế cho dựng 3 tấm bia Võ Công ở trước sân Võ Miếu khắc ghi công trạng của 10 võ tướng đã có nhiều chiến công đóng góp trong hai triều Gia Long và Minh Mạng thì có đến 5 người quê ở Thừa Thiên là các vị: Phạm Hữu Tâm, Phạm Văn Điển, Mai Công Ngôn, Tôn Thất Bật, Tạ Quang Cự. Năm 1854, do bị quy tội “dự mưu” trong vụ chính biến của Hồng Bảo (anh vua Tự Đức), Tôn Thất Bật đã bị đục tên. Dưới thời Tự Đức, triều đình tiếp tục cho dựng thêm 2 tấm “Tiến sĩ võ”, ghi danh cũng 10 Tiến sĩ đỗ trong 3 khoa thi võ vào các năm Ất Sửu (1865), Mậu Thìn (1868) và Kỷ Tỵ (1869) cũng thấy có đến 3 nguời đến từ Thừa Thiên là Văn Vận, Dương Việt Thiệu và Trần Văn Hiếu.