Người dân di chuyển trong tình trạng cửa Hữu bị ngập đợt mưa lũ đầu tháng 11

Vì sao Huế dễ ngập lụt?

Trả lời cho câu hỏi này, PGS.TS. Nghiêm Tiến Lam (Trường ĐH Thủy lợi) lý giải khá chi tiết. Nguyên nhân chính TP. Huế hay bị ngập lụt là do vị trí địa lý và địa hình. TP. Huế nằm ở vùng đồng bằng sông Hương, một dải đồng bằng nhỏ hẹp ven biển của lưu vực sông Hương. Lưu vực sông Hương có diện tích hơn 4.000km2 nhưng chủ yếu là đồi núi, đặc biệt là có các ngọn núi cao của dãy Trường Sơn và Bạch Mã che chắn toàn bộ ở phía tây và nam. Hơi ẩm của bão, áp thấp nhiệt đới và gió mùa Đông Bắc bị các dãy núi này chặn lại (hiệu ứng “phơn”) gây mưa. Lượng mưa rơi xuống khu vực này trong một vài ngày có thể bằng hoặc vượt tổng lượng mưa cả năm tính trung bình trên cả nước (cỡ 1.800mm). Người Pháp từng đo được lượng mưa cả năm ở Bạch Mã là 8.000mm.

Hình dung một cách nôm na, nếu lưu vực sông Hương mà bằng phẳng (như cái mâm chẳng hạn) chỉ cần rải đều lượng nước một trận mưa, cả lưu vực sẽ ngập khoảng gần 2m. Thực tế thì nước còn chảy ra biển nên sẽ giảm đi một chút. Tuy nhiên, lưu vực sông Hương lại giống cái chảo nghiêng về phía đông nam hơn. Do 3/4 diện tích lưu vực sông Hương là đồi núi cho nên nước mưa sẽ chảy xuống dồn vào còn khoảng 1/4 diện tích vùng đồng bằng có cao độ dưới 10m và gây ngập nặng.

Chính vì vậy mà cứ mưa lớn là khu vực đồng bằng ở Huế nơi có cao độ mặt đất dưới 10m sẽ ngập, đặc biệt sẽ ngập nặng trong những năm chịu ảnh hưởng của La Nina. Không phải gần đây Huế mới bị ngập mà điều này đã được ghi nhận hàng trăm năm nay trong sử sách của Triều Nguyễn.

Thách thức từ thực tế

Trước khi có bão, lũ về thì hồ chứa sẽ phải xả một phần nước trong hồ để đón lũ. Một phần nước lũ sẽ được tích lại trong hồ với thể tích chống lũ này. Khi hồ đã đầy mà nước lũ vẫn chảy về thì nước lũ về hồ bao nhiêu sẽ được xả xuống hạ du bấy nhiêu. Về lý thuyết thì là như vậy. Có nghĩa là, hồ chứa chỉ có lợi trong kiểm soát/giảm lũ nếu tính toán thiết kế đúng và vận hành đúng quy trình. Các hồ chứa lớn ở miền Bắc như Hòa Bình, Tuyên Quang, Thác Bà bao nhiêu năm nay giữ an toàn cho đồng bằng sông Hồng và Hà Nội theo cách như vậy.

Tuy nhiên, trong thực tế có thể sẽ khác. Một là, các chủ hồ thủy điện thì thường muốn giữ mực nước hồ cao để có lợi cho phát điện. Nếu dự báo không tốt thì khi có nguy cơ đầy hồ mới xả lũ để đảm bảo an toàn đập có thể gây nên “lũ chồng lũ”. Hai là, các dự báo thường không tốt do chưa được đầu tư đầy đủ. Ba là, biến đổi khí hậu làm cho mưa, lũ cực đoan hơn khiến các tính toán thiết kế (ví dụ chiều cao đập, dung tích chống lũ, khả năng của các đập tràn xả lũ) trở nên lạc hậu và không còn phù hợp.

Vậy giải pháp sử dụng hồ chứa chống lũ như ở miền Bắc có phù hợp không? Câu trả lời là không. Cho dù có thể xây dựng bao nhiêu hồ chứa trên lưu vực sông Hương thì chúng cũng không có đủ khả năng để chứa hết lượng nước lũ như đã nêu ở trên.

Dựa trên nghiên cứu có tính toán định lượng có thể nói rằng, ảnh hưởng của thủy triều (triều cường) và độ mở của cửa biển Thuận An đến ngập lụt trên đồng bằng là nhỏ, có thể nói là không đáng kể. Thủy triều và độ mở của cửa biển Thuận An chủ yếu ảnh hưởng đến mực nước trong phá Tam Giang và đầm Thủy Tú. Còn nước trên đồng bằng có tiêu kịp ra các đầm phá trên hay không thì lại phụ thuộc vào khả năng chuyển nước của sông Hương và dòng chảy tràn trên đồng bằng.

Vậy khả năng chuyển tải nước của sông Hương như thế nào? Theo tác giả Nghiêm Tiến Lam thì trong điều kiện bình thường, sông Hương nhận nước từ phần lớn diện tích của lưu vực qua các nhánh Tả Trạch, Hữu Trạch và sông Bồ để đổ ra đầm phá với lưu lượng trung bình năm chỉ vài trăm m3/s. Trong các trận lũ lớn, lưu lượng nước lũ có thể có thể lớn gấp 10 lần (khoảng 12.500m3/s), do vậy, vượt quá rất nhiều khả năng thoát lũ của sông Hương. Điều này bắt buộc nước phải tràn ngập đồng bằng.

Riêng đối với Huế, việc khơi thông dòng chảy sông Bồ đổ thẳng ra phá Tam Giang hoặc khơi dòng An Cựu để thoát lũ ra đầm Cầu Hai để giảm tải cho sông Hương chỉ có hiệu quả thấp do chi phí cao và không phải giải pháp căn cơ vì phải cần cả chục lòng dẫn cỡ sông Hương mới mong thoát lũ kịp cho lưu vực.

Giải pháp đắp đê có dùng được không? Khác với đê ở miền Bắc là để ngăn các trận lũ lớn, ở Huế và một số tỉnh miền Trung cũng có đê, nhưng là để ngăn nước mặn và ngăn những trận lũ nhỏ đầu vụ phục vụ cho bà con kịp thu hoạch nên đê cần phải không quá cao để sao cho các trận lũ lớn tràn qua dễ dàng và thoát nhanh nhất. Nói cách khác, đê không có tác dụng ngăn các trận lũ lớn.

Tính chuyện chung sống dài lâu với lũ lụt

Không chỉ có TP. Huế, các tỉnh miền Trung về lâu dài cần phải xác định chung sống dài lâu với lũ và ngập lụt, do đó, cần triển khai nhiều giải pháp.

Về giải pháp quy hoạch - công trình: Nên tổ chức quy hoạch lại các khu dân cư và cơ sở hạ tầng gắn với phòng, chống thiên tai dựa trên các tính toán thủy văn, ngập lụt cập nhật với biến đổi khí hậu và các điều kiện thời tiết cực đoan. Bên cạnh đó, cập nhật lại các tiêu chuẩn về tiêu thoát nước cho các công trình xây dựng, giao thông do các công trình này ở miền Trung thường đường tôn cao hơn so với mặt đất tự nhiên cũng ảnh hưởng đến thoát lũ và ngập lụt.

Về giải pháp phi công trình: Ứng dụng công nghệ hiện đại trong dự báo, cảnh báo thiên tai. Trong đó việc chia sẻ miễn phí, trực tuyến các số liệu cơ bản sẽ thúc đẩy các nghiên cứu ứng dụng công nghệ mới phục vụ cho dự báo và cảnh báo thiên tai. Thường xuyên cập nhật và tính toán, thành lập bản đồ ngập lụt theo các kịch bản thiên tai để làm cơ sở cho công tác ứng phó. Tăng cường nhận thức của người dân bằng việc công bố trực tuyến các bản đồ ngập lụt đã xảy ra và dự báo có khả năng xảy ra. Đồng thời, người dân cũng cần chủ động thích ứng với lũ lụt, như làm nhà chống lũ.