![]() |
| Bìa cuốn sách về các nhân vật lịch sử của Huế |
Với nguồn sử liệu phong phú và cách tiếp cận đa chiều, cuốn sách là tài liệu tham khảo quan trọng đối với những người quan tâm đến lịch sử Việt Nam cuối thế kỷ XIX.
Nội dung bao quát giai đoạn từ khi Pháp nổ súng tấn công Đà Nẵng năm 1858 đến trước phong trào Cần Vương. Giai đoạn được xem là “khúc quanh” quan trọng trong tiến trình lịch sử dân tộc vào cuối thế kỷ XIX.
Từ nửa sau thế kỷ XIX, sau khi thất bại tại chiến trường Đà Nẵng (1858) khiến kế hoạch “đánh nhanh, thắng nhanh” bị phá sản, thực dân Pháp chuyển sang chiến lược “tằm ăn lá dâu”, từng bước đánh chiếm Nam Kỳ, mở rộng ra Bắc Kỳ và dần siết chặt vòng vây đối với Kinh đô Huế, trung tâm quyền lực của Triều Nguyễn.
Nhiều bài viết chỉ ra rằng, giai đoạn 1858 - 1883 là thời kỳ khủng hoảng sâu của Triều Nguyễn trong bối cảnh đối đầu ngày càng gay gắt với thực dân Pháp. Trước những biến chuyển nhanh chóng của tình hình quân sự và ngoại giao, nội bộ quan lại triều đình xuất hiện sự phân hóa rõ rệt xoay quanh vấn đề mang tính quyết định: lựa chọn sách lược hòa hoãn hay kiên quyết kháng cự.
PGS.TS. Đỗ Bang nhận định, do lâm vào cuộc khủng hoảng về đường lối, nên cỗ xe vận hành bộ máy triều đình Huế đành chịu buộc bằng sức kéo của “ba con ngựa” đại diện cho ba phái chủ hòa, chủ chiến và đầu hàng. Mỗi vua kế vị từ năm 1883 - 1885 là người đại diện cho một trong những phe phái đó, nhưng phe chủ chiến do Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết đứng đầu luôn nắm ưu thế tại triều đình làm nhiệm vụ sàng lọc để kiến tạo một triều đình chống Pháp. Sự đối lập gay gắt giữa ba xu hướng khiến triều đình vận hành như “cỗ xe có ba con ngựa kéo ba hướng”. Mỗi vị vua kế vị trong thời gian ngắn 1883 - 1885 đều chịu ảnh hưởng của một phe phái, tạo ra chuỗi biến động liên tiếp ở thượng tầng quyền lực. Việc thay vua, phế lập, tranh giành ảnh hưởng đã khiến bộ máy trung ương suy yếu, đối sách với Pháp bị chậm trễ và thiếu nhất quán.
Một điểm nổi bật của cuốn sách là việc làm rõ vai trò chiến lược của cửa biển Thuận An, tuyến phòng thủ được xem như “tấm khiên” bảo vệ Kinh đô từ hướng biển. Khi nguy cơ Pháp tấn công Huế trở nên hiện hữu, triều đình triển khai kế hoạch “hải phòng”, củng cố các đồn Trấn Hải, Hòa Duân cùng hệ thống phòng thủ ven biển.
Cuốn sách đã nỗ lực phác họa chân dung nhiều nhân vật lịch sử ít được đề cập trong sử học phổ thông, như Hải phòng sứ Nguyễn Hanh, các tướng Nguyễn Chơn, Nguyễn Quý, danh tướng Trần Thúc Nhẫn, cùng các danh thần Lâm Hoằng, Ông Ích Khiêm…Thông qua nguồn tư liệu từ gia phả dòng họ, chính sử Triều Nguyễn và tư liệu địa phương, các tác giả làm rõ vai trò, công trạng của từng nhân vật trong việc bảo vệ cửa ngõ Kinh thành. Những phát hiện tư liệu này góp phần bổ sung và hoàn thiện bức tranh tổng thể về đội ngũ quan lại, binh tướng đã trực tiếp tham gia cuộc chiến chống Pháp từ tuyến biển.
Đáng chú ý, cuốn sách dành dung lượng đáng kể để làm rõ trường hợp Nguyễn Văn Tường. Trái với nhiều nhận định trước đây, một số nghiên cứu chỉ ra rằng, sau khi Kinh đô thất thủ, ông ở lại Huế không phải để “phục vụ Pháp”, mà theo lệnh của Hoàng Thái hậu Từ Dũ nhằm giữ ổn định cho Kinh thành, tôn miếu, lăng tẩm và dân chúng. Điều này cho thấy ông không tự ý ra đầu thú hay chủ động hợp tác với Pháp. Ngay trong bối cảnh Kinh đô bị đặt dưới sự kiểm soát của quân Pháp, Nguyễn Văn Tường vẫn âm thầm tiếp nhận chỉ dụ của vua Hàm Nghi và duy trì liên lạc với lực lượng kháng chiến do Tôn Thất Thuyết lãnh đạo cho đến khi bị bắt.
