![]() |
| Bí thư Tỉnh ủy Ngô Yên Thi thị sát trận lũ lịch sử năm 1999 |
Một tuần trước lũ, khi biết chị Nguyễn Thị Liên Hoa (vợ của anh Ngô Yên Thi) đưa anh về với gia đình, tôi tìm đến thăm và liền báo cho anh Lê Công Cơ (Lê Phương Thảo). Từ Đà Nẵng, anh Cơ vội vàng ra Huế tìm đến ngôi nhà 32 Nguyễn Khuyến, phường Thuận Hóa thăm đồng đội của mình lần cuối.
Anh Ngô Yên Thi sinh năm 1944, quê nội ở phường Thanh Thủy, nhưng anh được sinh ra ở quê ngoại xã Chân Mây - Lăng Cô. Năm 1963, khi học ở Trường Quốc Học - Huế, anh đã tham gia phong trào học sinh Phật tử đấu tranh chống chế độ Ngô Đình Diệm. Đến hè 1964, anh lánh vào Sài Gòn tham gia đấu tranh với danh nghĩa Phật tử chống chính quyền Nguyễn Khánh và Hiến chương Vũng Tàu, tiếp đó chống chính quyền Trần Văn Hương và Nguyễn Văn Thiệu - Nguyễn Cao Kỳ, đấu tranh đòi Mỹ không can thiệp vào miền Nam.
Cuối năm 1966, sau vụ biến động ở miền Trung, anh Ngô Yên Thi mới quay về Huế ghi danh theo học ở Trường Đại học Văn khoa và sau đó được cử vào Ban Cán sự Đảng Sinh viên Đại học Huế. Thực hiện nhiệm vụ được giao, anh Ngô Yên Thi tiếp cận với số người quen biết vốn là cơ sở cốt cán nhằm khôi phục lại phong trào đấu tranh của sinh viên Huế.
Theo quyết định của Thành ủy Huế, năm 1967, anh Ngô Yên Thi chuyển sang hoạt động đơn tuyến mà trọng tâm là điều tra, nghiên cứu các địa điểm mà lực lượng vũ trang cách mạng dự định sẽ tổ chức tấn công vào nơi mà đối phương bố trí phòng vệ chặt chẽ, trong đó có Câu lạc bộ Sĩ quan của quân đội Sài Gòn ở khách sạn Hương Giang.
Bằng thế hợp pháp của mình, anh Ngô Yên Thi đã vào tận nơi khảo sát và sau một tháng điều nghiên, cuối cùng anh đã phát hiện phía đông - bắc câu lạc bộ, nơi tiếp giáp với Đập Đá và bờ sông Hương là khu vực lơi lỏng nhất.
Sau trận tập kích vào Câu lạc bộ Sĩ quan ở khách sạn Hương Giang, anh Ngô Yên Thi được giao nhiệm vụ điều nghiên các vị trí ở khu vực Thành nội Huế như sân bay Tây Lộc, vị trí đóng quân của Đại đội Hắc Báo, đồn Cảnh sát và đặc biệt là Khu Mang Cá lớn, Mang Cá nhỏ.
Để giúp lực lượng vũ trang cách mạng có thể thâm nhập vào Thành nội theo yêu cầu, anh Ngô Yên Thi đã cùng cơ sở tin cậy của mình dành hẳn hơn hai tháng để xúc tiến điều nghiên.
Do các cửa thành đóng chặt sau giờ giới nghiêm nên cống Thủy Quan là nơi sơ hở nhất vì tại đây đối phương không tổ chức canh phòng, chỉ rào thép gai và không gài mìn. Còn muốn xâm nhập vào Mang Cá nhỏ chỉ có thể dựa vào bộ rễ cây đa cổ thụ mọc sát bờ tường; nhờ có bộ rễ dài thòng xuống sát mặt đất, đặc công chỉ cần bám rễ này có thể leo vào thành.
Nhờ nắm được chi tiết nên trong cuộc Tổng tấn công và nổi dậy Xuân 1968, lực lượng vũ trang quân Giải phóng đã xâm nhập mục tiêu thuận lợi. Sau 26 ngày đêm hoạt động ở quận Tả Ngạn, nhờ thông thuộc địa hình nên anh Ngô Yên Thi là người được giao nhiệm vụ tìm địa điểm vượt sông. Khi đoàn quân rút về Phú Vang, nhờ Nhân dân chỉ đường, đoàn quân đã thoát được những đợt truy sát của không quân, pháo binh, xe tăng đối phương để trở về hậu cứ an toàn.
Từ giữa năm 1968 cho đến khi quân đội Mỹ rút quân là những năm tháng gian khổ nhất. Do bị chốt chặn, chia cắt nên ở hậu cứ, lương thực thiếu thốn trầm trọng.
Những nẻo đường trở về đồng bằng thấm đẫm máu của cán bộ, chiến sĩ quân Giải phóng. Họ hy sinh vì pháo và bị phục kích. Sau Hiệp định Paris 1973, tổng kết mới thấy mức độ ác liệt của chiến tranh, vì để có nửa tạ lương thực bình quân phải đổi một mạng người.
Cũng chính vào thời điểm gay go đó, anh Ngô Yên Thi được Thành ủy phân công về đồng bằng bám trụ. Tại làng Nam Phổ vùng bắc Truồi, ban ngày, anh Ngô Yên Thi ở hầm bí mật, ban đêm tiếp xúc cơ sở. Đặc biệt, sau khi đối phương mở chiến dịch Bình Minh năm 1972, phong trào đô thị Huế bị tổn thất nặng nề do phần lớn đội ngũ cán bộ cốt cán, đặc biệt là trong giới giáo chức, sinh viên, học sinh phần lớn đã bị bắt đày ra Côn Đảo.
Nhờ những đường dây mà anh Ngô Yên Thi dày công xây dựng nên Nam Phổ không chỉ là nơi trung chuyển tài liệu vào nội đô mà còn là điểm hẹn của cốt cán từ Huế về bàn bạc công việc và Thành ủy cử cán bộ vào hẳn Huế trực tiếp chỉ đạo, gây dựng lại phong trào.
Là cán bộ trưởng thành trong chiến tranh, sau hai mươi năm lăn lộn xây dựng quê hương, anh Ngô Yên Thi trở thành Bí thư Tỉnh ủy. Giai đoạn anh đảm đương cương vị cao nhất ở địa phương, anh đã cùng tập thể Ban Thường vụ Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế đề ra nhiều chủ trương, thực hiện nhiều giải pháp nhằm từng bước cải thiện hạ tầng và đời sống cho người dân.
Trong những ngày diễn ra đợt lũ lụt lịch sử năm 1999, anh đã cùng lãnh đạo chủ chốt bám trụ, trực tiếp chỉ đạo, đôn đốc các cấp, các ngành huy động tối đa phương tiện và của cải tìm cách nhanh nhất cứu dân.
Nhờ kịp thời chuyển địa điểm và tận dụng ưu thế của viễn thông, anh đã kịp thời báo cáo tình hình nghiêm trọng cho Bộ Chính trị. Đây là lần đầu tiên cầu hàng không được thiết lập và đích thân Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Quốc hội vào trực tiếp thị sát tình hình đề ra những giải pháp cụ thể, trực tiếp hỗ trợ giúp Huế khắc phục hậu quả của trận đại hồng thủy.
Riêng anh Ngô Yên Thi sau khi thị sát tình hình ở Quảng Điền - huyện thường xuyên bị lũ chia cắt nên đã kiến nghị Trung ương cần tổ chức ứng cứu hậu cần tại chỗ, bởi trên thực tế, do đường bộ bị ngập, đường sắt bị tàn phá; còn cầu hàng không tuy được thiết lập nhưng do thời tiết xấu nên phải sau hai, ba ngày mới đưa hàng cứu trợ đến những nơi bị cô lập…
