![]() |
| Chính trị viên - liệt sĩ Hoàng Biên (tức Phạm Hữu Xuân) |
Trong lớp tiền bối ấy, sau Hiệp định Gienève - 1954 chỉ có chú Nguyễn Văn Đạt và cha tôi được Đảng phân công ở lại. Chú Đạt bị trúng bom B52 hy sinh năm 1967 khi đang là Bí thư Huyện ủy; còn cha tôi bị phục kích hy sinh năm 1963, lúc ông đang là Phó Bí thư Huyện ủy.
Khi làm hồ sơ đề nghị Ban Thường vụ Tỉnh ủy công nhận cán bộ Tiền khởi nghĩa cho cha tôi, tìm kiếm tư liệu, tôi mới biết trước khi hy sinh, cha tôi được Đảng phân công làm Chính trị viên Huyện đội Phú Lộc đúng vào thời điểm cả miền Nam chuyển từ đấu tranh chính trị sang kết hợp với đấu tranh vũ trang theo tinh thần Nghị quyết 15 của Trung ương.
Theo hồi ký của hai chú Nguyễn Vạn (nguyên Bí thư Tỉnh ủy) và Lê Sáu (nguyên UVTV Tỉnh ủy), sau khi ra Bắc chữa bệnh, trước khi được bí mật đưa về Nam, cha tôi đã học nghị quyết lịch sử này.
Tình hình Phú Lộc cuối năm 1959 khá bi đát. Sau những đợt tố cộng, chính quyền Ngô Đình Diệm về cơ bản đã xóa được mạng lưới cơ sở của ta; đảng viên số thì bị bắt, số ly khai, thậm chí có người đầu hàng. Nếu năm 1955, toàn Đảng bộ Phú Lộc có 417 đảng viên thì đến cuối năm 1959 điểm lại chỉ còn đúng 23 đảng viên. May mắn là đến bây giờ, những “chiến binh ban đầu” như nguyên Huyện đội trưởng Phú Lộc Hồ Quốc Phú (Truồi) và các chiến sĩ: Phạm Thi (Nong), Phan Viết Dần (Phú Bài), Lê Phước Hy (Lăng Cô), Nguyễn Xuân Hoành (Cảnh Dương) vẫn còn sống, và mừng hơn sau khi “giã từ vũ khí” họ đều có cuộc sống yên ổn, dù tuổi xấp xỉ 90 hoặc hơn.
Đón ngọn gió mát lành từ bãi biển Cảnh Dương, dưới mái hiên nhà ở làng Đông An, tôi chăm chú lắng nghe người lính già Nguyễn Xuân Hoành kể chuyện. Trong số những chiến binh còn sống sót, ông là người trẻ nhất, sinh năm 1940.
Từ những ký ức rơi rớt, gom góp lại đã giúp tôi hình dung được bối cảnh mà Chính trị viên Hoàng Biên (tức Phạm Hữu Xuân) và Huyện đội trưởng Hồ Quốc Phú (tức Hồ Đắc Huyên) cùng Bí thư Chi bộ xã Lộc Vĩnh Nguyễn Hà (tức Nguyễn Văn Đạt) cùng bàn mưu tính kế vượt qua khó khăn, thử thách nhằm chống lại sự thống trị tàn bạo của chế độ Ngô Đình Diệm.
Kể về thời kỳ đen tối của phong trào cách mạng ở địa phương, ông Nguyễn Xuân Hoành cho biết: Do bị phong tỏa nhiều ngày, gạo không có nên đơn vị động viên nhau tìm môn thục, môn vót thay thế. Từ chỉ huy đến chiến sĩ, người nào cũng gầy trơ xương. Phước Hưng và Phú Xuyên chỉ cách nhau một con sông. Ở phía bắc con sông Bù Lu có mấy thửa ruộng của gia đình nên Chính trị viên Hoàng Biên bàn với tôi đưa quân về đó. Cuối hè đang kỳ lúa chín. Để tránh bị lộ, chúng tôi dặn chiến sĩ phân tán, mỗi nơi tuốt một ít. Lúa được cùi về Cù Dù. Tận dụng các bãi đá để phơi khô sau đó dùng mấy chiếc mũ đồng thu được của lính bảo an làm cối giã gạo. Chính thời kỳ tối đen này, đơn vị đã truyền tụng câu “Đâu cần Biên có. Đâu khó có ông Biên” vì Chính trị viên Hoàng Biên là biểu hiện cho sự toàn tâm toàn ý, xả thân vì sự nghiệp cao cả của Đảng. Miệng nói tay làm, không chỉ chia sẻ, động viên mà còn nêu gương cho toàn đơn vị.
Trước ngày giải tán Lộc Vĩnh để nhập vào xã mới Chân Mây - Lăng Cô, ông Nguyễn Xuân Hoành đưa tôi đến thăm bà Lê Thị Phượng, năm nay 89 tuổi, hiện sống ở thôn Bình An.
![]() |
| Ông Nguyễn Xuân Hoành (giữa) và thân nhân Liệt sĩ Phạm Hữu Xuân |
Tôi đã về Hà Tiên ngắm Hòn Vọng phu và khá thuộc giai điệu của bài hát cùng tên. Người vợ trong bài hát may mắn còn “ôm con” chờ chồng, nhưng với bà Lê Thị Phượng không hề có được niềm hạnh phúc đó.
Bà kể: Cưới nhau chưa lâu, đầu năm 1962, chồng tôi cùng chú Hoành xung phong đi bộ đội. Trước khi đi, anh chỉ nói với tôi đôi lời: “Mình đã thề sống chết có nhau. Sau này, anh về nếu em lấy chồng anh mới lấy vợ”.
Theo lời tường thuật của đồng đội Nguyễn Xuân Hoành, chồng bà - liệt sĩ Trần Văn Tương hy sinh vào cuối Thu năm 1962. Đêm đó sau khi đột nhập vào làng Phú Xuyên, giữa khuya chúng tôi rút. Đến khu vực đồi thông giáp núi thì bất ngờ gặp pháo kích. Pháo bắn trúng đội hình làm bạn tôi, anh Trần Văn Tương hy sinh tại chỗ.
Lúng túng chưa biết giải quyết như thế nào thì Chính trị viên Hoàng Biên trao đổi với Huyện đội trưởng Hồ Quốc Phú. Ông đề nghị ông Phú tiếp tục dẫn quân về hậu cứ còn hậu sự chính trị viên tự lo.
Tôi và chiến sĩ Nguyễn Thanh Hiêu được chọn ở lại và theo Chính trị viên Hoàng Biên đột nhập vào làng Phú Xuyên, tìm đến nhà cơ sở Huỳnh Văn Hiếu. Chính trị viên dặn dò gì với cơ sở của mình tôi không rõ nhưng trước khi đi, tôi và anh Hiếu được giao cùng vác một tấm ván; còn Chính trị viên Hoàng Biên vác cây cuốc và ôm chiếc chiếu mang theo.
Đào huyệt xong, chúng tôi dùng tấm nilon đi mưa của liệt sĩ Tương quấn lại rồi đặt thi thể anh trên tấm ván. Trước khi lấp đất, chúng tôi dùng chiếc chiếu phủ lên.
Nghe người bạn chiến đấu của chồng kể lại, bà Phượng ôm mặt khóc, thều thào: “Sau giải phóng khi lên đó di dời, tấm ván lót cho chồng tôi vẫn còn!”.
Không di ảnh, thay nó là tấm bằng “Tổ quốc ghi công” Liệt sĩ Trần Văn Tương được dựng trên bàn thờ.
Chồng hy sinh khi bà Lê Thị Phượng mới 26 tuổi, lại chưa có con. Với nhiều người việc tái giá là phải đạo nhưng bà vẫn thủ tiết thờ chồng, tính đến nay vừa đúng 63 năm. Một tượng đài sống, nếu không gặp có lẽ tôi đã không tin!
Ông Phan Viết Dần, sinh năm 1938, quê ở Phú Bài, thành phố Huế. Năm 1963, ông là chiến sĩ của Huyện đội Phú Lộc được đơn vị bố trí làm liên lạc cho Chính trị viên Hoàng Biên kể về tấm gương hy sinh của Thủ trưởng mình như sau: Sáng đó, đoàn cán bộ Phú Lộc gồm có, các anh: Nguyễn Văn (Bí thư Huyện ủy), Hoàng Biên (bí danh của Phạm Hữu Xuân, Phó Bí thư Huyện ủy) sau khi về Lộc Vĩnh phát động Nhân dân nổi dậy phá Ấp chiến lược, trên đường trở về hậu cứ đến khu vực khe nước đổ Thủy Yên - Thủy Cam thì Chính trị viên Hoàng Biên bị rơi vào ổ phục kích.
Hôm ấy trời mưa to, tôi đi trước. Trong khi đang leo dốc thì ba quai dép cao su của tôi bị tụt. Tôi dừng lại xỏ thì Chính trị viên vượt qua. Định đi tiếp, bất ngờ tôi nghe tiếng súng nổ. Lúc đầu tưởng anh Hiếu, anh Hoành đi trước chạm địch nhưng khi thấy mũ đồng nhấp nhô, la hét kêu gọi đầu hàng, tôi mới biết Chính trị viên Hoàng Biên đã bị rơi vào ổ phục kích.
Tôi nghe rất rõ tiếng bọn địch: “Vứt súng xuống. Hàng sống, chống chết”.
Sau nhiều lần kêu gọi nhưng Chính trị viên Hoàng Biên vẫn im lặng. Một lúc sau, tôi thấy bọn chúng ập đến. Tiếng súng vang lên. Một tên lính bảo an chết tại chỗ; còn tên bị thương, chúng dìu đi. Biết không khuất phục được, bọn chúng điên cuồng xả súng hạ sát Chính trị viên Hoàng Biên.
Chiến sĩ Nguyễn Xuân Hoành cho biết thêm: Theo phân công, sáng đó, tôi và anh Nguyễn Thanh Hiếu (sau này là Đại đội trưởng Đặc công, hy sinh năm 1969) đi trước dò đường. Có lẽ do bị chỉ điểm nên khi hai anh em chúng tôi đi qua, chúng không bắn mà đợi Chính trị viên Hoàng Biên lọt vào ổ phục kích, bọn chúng mới ra tay.
Khi đang xuống dốc thì cả hai chúng tôi nghe súng nổ nên liền quay lại. Lúc này trên dốc địch đông quá nên chúng tôi bí mật tiếp cận mới biết Chính trị viên Hoàng Biên đã bị thương. Vì ở rất gần nên chúng tôi nghe rõ tiếng bọn địch kêu gọi đầu hàng nhưng Chính trị viên Hoàng Biên không chịu buông súng. Một lúc sau, bọn chúng ập đến thì bất ngờ bị Chính trị viên Hoàng Biên bắn trả làm một tên chết và một tên bị thương.
Chính trị viên Hoàng Biên thà hy sinh chứ nhất định không để bị sa vào tay giặc, thật sự tiêu biểu cho khí phách của người Cộng sản, nó trở thành gương sáng của tinh thần yêu nước sẵn sàng xả thân vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, vì hạnh phúc của Nhân dân đã được cán bộ, chiến sĩ noi theo.

